Các nghề thủ công ở Việt Nam bắt nguồn từ văn hóa lúa nước thời xưa khi ông cha ta có thói quen tự chế tạo cho bản thân và gia đình những công cụ cần thiết phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, công việc đồng áng và nghỉ ngơi thư giãn. Những sáng tạo đơn thuần đó được gìn giữ từ đời này sang đời kia và được mở rộng dần giúp hình thành nên các làng nghề truyền thống ở Việt Nam.
Các nghề thủ công ở Việt Nam bắt nguồn từ văn hóa lúa nước thời xưa khi ông cha ta có thói quen tự chế tạo cho bản thân và gia đình những công cụ cần thiết phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, công việc đồng áng và nghỉ ngơi thư giãn. Những sáng tạo đơn thuần đó được gìn giữ từ đời này sang đời kia và được mở rộng dần giúp hình thành nên các làng nghề truyền thống ở Việt Nam.
Trong quá khứ, nghề tiện gỗ tập trung chủ yếu vào việc làm các sản phẩm thờ tự, đồ gia dụng như đài nến, ống hương, bát nhang, đấu đong thóc, chân bàn ghế, tủ… Để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng, nghề tiện gỗ Ngày nay đã mở rộng sang sản xuất các mặt hàng gia dụng cao cấp như mành rèm cửa, đệm ghế ô tô, đồ trang trí nội thất và nhà cửa…
Với mục tiêu đa dạng hóa sản phẩm, làng tiện gỗ Nhị Khê còn chuyển hướng sản xuất từ các nguyên liệu như đá sừng… thành những sản phẩm trang sức và mỹ nghệ độc đáo, tinh tế như bình, lọ, hộp đựng tăm, gạt tàn thuốc lá, các tác phẩm nghệ thuật với hình ảnh các con vật quý…
Trong số các nghề truyền thống ở Việt Nam, đặc biệt và kì công nhất phải kể đến làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ nằm ở Làng Chuôn Ngọ huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
Nét đặc sắc của nghề truyền thống này đó là dùng vỏ trai, vỏ ốc để làm nên những bức chạm khảm cực đẹp. Nghệ nhân ở làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ dùng những kỹ thuật cao và bàn tay kheo léo để làm cho những mảnh trai trở nên phẳng mịn, không bị gãy vụn và được đục gắn xuống gỗ vừa vặn. Nghề truyền thống khảm trai đòi hỏi công đoạn chọn vỏ trai, vỏ ốc cũng rất quan trọng.
Bí quyết lựa chọn nguyên liệu là chọn trai có loại cánh nhỏ, sẫm màu, có loại thịt trắng, vỏ mình dày, có loại nhiều vân, ốc xà cừ, đặc biệt vỏ trai “Cửu Khổng” có vân, màu sắc phong phú như cầu vồng dùng để khảm núi non, cánh phượng,… Hiện nay, vì nguồn nguyên liệu cạn kiệt, các làng nghề truyền thống khảm trai sử dụng nguyên liệu nhập từ Indonesia, Singapore, Trung Quốc,…
Các làng nghề Việt Nam, đặc biệt là Làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ luôn nâng cấp chất lượng, kỹ thuật, đây là điều quyết định chất lượng khác biệt so với các vùng khác.
Bí kíp để các mảnh trai gắn vào gỗ được thẳng mà không bị vỡ, những người thợ lành nghề của làng thủ công mỹ nghệ Chuôn Ngọ mài vỏ trai rồi ngâm rượu, hơ lửa rồi mới chẻ róc, cưa, đục.
Các bức tranh làng nghề truyền thống thường là các tác phẩm chạm khảm hoành phi, câu đối trong đình đền, hoạ tiết trang trí trên sập gụ, tủ chè, tranh treo tường. Ngày nay ngành nghề truyền thống này còn dần xuất hiện nhiều hoạ tiết trên hộp đựng trà, ống đũa, bát đĩa, tranh lưu niệm.
Cũng giống như các làng nghề thủ công khác, làng nghề khảm trai Khuôn Ngọ cũng trải qua thăng trầm và đang dần mai một, nhưng may mắn là vẫn còn một số nghệ nhân tâm huyết giữ gìn làng nghề nhằm lưu giữ giá trị truyền thống.
Làng nghề truyền thống làm giấy dó ở phường Phong Khê, tỉnh Bắc Ninh đã có tuổi đời 800 năm.
Nghề thủ công truyền thống này sản xuất giấy dó từ vỏ những cây dó (cây dó giấy, cây dó liệt, cây dướng). Các loại giấy dó được làm ra ở làng nghề thủ công Phong Khê thường là : giấy phương, giấy trúc, giấy khay, giấy để tạo giấy sắc, giấy vua phê, giấy hành ri, giấy dó bìa, giấy sắc, giấy moi, giấy xề,…
Những tờ giấy dó được các làng truyền thống Việt Nam dùng để vẽ tranh, làm giấy điệp cho tranh dân gian Đông Hồ, ngoài ra giấy dó cũng được làng nghề truyền thống dùng để ghi chép lịch sử, lưu giữ các tài liệu, làm quạt, bao bì, giấy chống ẩm, sản xuất tấm cách âm, cách nhiệt, màng loa máy thu thanh.
Các công đoạn của nghề truyền thống làm giấy dó:
Thu hoạch vỏ cây dó từ rừng, thường thu hoạch từ tháng 8 đến tháng 10 hàng năm vì khi đó thời tiết nắng nóng khiến vỏ cây dễ bị bong hơn.
Cắt thành từng khúc dài chừng 2m, nấu và ngâm vỏ cây dó trong nước vôi trong vòng 3 tháng, bóc bỏ lần vỏ đen, giã bằng cối hoặc chày rồi dùng chất nhầy từ cây mò tạo hỗn hợp kết dính, pha thêm nước để làm dung dịch làm giấy, lỏng hay đặc tùy vào đồ dày giấy.
Dùng “liềm seo” (khuôn có mành trúc, nứa hay dây đồng ken dày) để seo giấy bằng cách chao đi chao lại trong bể bột.
Ép, phơi, sấy, nén hay cán phẳng lớp bột trên liềm để thu được tờ giấy dó.
Xơ dó kết hợp lại với nhau như mạng nhện nhiều lớp, làm cho tờ giấy rất xốp và nhẹ, có trọng lượng riêng băng một nửa các loại giấy sản xuất công nghiệp. Bên cạnh đó, giấy dó rất bền, dai, không nhòe khi viết, vẽ, ít bị mối mọt, giòn gãy hay ẩm nát. Chính những điều trên tạo nên nét độc đáo sản phẩm của các làng nghề cổ truyền.
Từ làng nghề làm giấy ở Bắc Ninh, giấy dó Việt Nam đã được xuất khẩu sang nhiều quốc gia trên thế giới và rất được khách hàng ưa chuộng, một trong những niềm tự hào của các nghề thủ công ở Việt Nam.
Làng nghề truyền thống mây tre đan Phú Vinh là một trong những làng nghề thủ công lâu đời tại Việt Nam hiện ở xã Phú Nghĩa, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Cùng với các làng nghề truyền thống khác, làng nghề Phú Vinh đã làm nên lịch sử nghề mây tre đan trong suốt hàng thập kỷ qua.
Sản phẩm từ nghề truyền thống mây tre đan rất phong phú, bao gồm bàn ghế mây tre, tủ mây, kệ mây, chao đèn, hoành phi, lẵng mây, bát và sàng mây,... Mỗi sản phẩm đều mang đậm dấu ấn nguyên bản của truyền thống. Ngoài ra, mây còn có thể được kết hợp với các vật liệu khác mây tre khác như tre trúc, lưới mây, tạo nên nhiều hoạ tiết độc đáo, đẹp mắt. Những sự kết hợp này mang đến vẻ hiện đại và tinh tế, làm nổi bật tính thẩm mỹ của từng sản phẩm.
Các bước làm ra một sản phẩm mây tre đan gồm:
Phơi tái nguyên liệu rồi đem ngâm hoá chất tầm 10 ngày để chống mối mọt.
Vớt ra đem nghiến mấu, cạo vỏ, đánh bóng và phơi.
Đưa tre vào lò, dùng rơm, rạ hoặc lá tre hun lấy mấu rồi lấy ra để nguội và đem lên uốn thẳng.
Đan các thanh nguyên liệu để làm thành sản phẩm.
Màu sắc thành phẩm mây tre đan có nhiều loại, nghệ nhân có thể giữ màu nguyên bản của mây hun hoặc hỗ trợ pha chế sơn PU lên sản phẩm.
Ngành nghề truyền thống mây tre đan có cách tạo màu tự nhiên rất độc đáo. Nghệ nhân dùng nan tre, nan mây đem chuốt cho mượt rồi phơi khô, đem nhúng vào nước lá cây sỏi băm nhỏ đã nấu sôi. Cách này không ảnh hưởng đến sức khoẻ mà còn đảm bảo độ bền màu lên đến 30-40 năm, góp phần tạo thương hiệu cho mây tre Việt Nam.
Các làng nghề thủ công mỹ nghệ của Việt Nam không chỉ là nơi gìn giữ truyền thống mà còn trở thành điểm đến hấp dẫn cho du khách trong và ngoài nước, đặc biệt phải kể đến làng nghề Phú Vinh. Sản phẩm mây tre đan tại đây đã và đang xuất khẩu sang nhiều quốc gia, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, và các nước châu Âu (chiếm 60% sản lượng). Trong nước, Mây Tre Đan Trà hiện là đối tác chính của làng nghề Phú Vinh, mang đến cho người tiêu dùng Việt Nam những sản phẩm thủ công mây tre đan chất lượng cao. Các sản phẩm được ưa chuộng nhất có thể kể đến như sofa mây, ghế mây, bàn mây,... và đồ trang trí như gương mây, đĩa hoa mây, đèn mây, hộp giỏ quả mây,...
Các làng nghề truyền thống Việt Nam đa phần tập trung ở miền Bắc, trong đó có các làng dệt nổi tiếng ở Hà Tây, như làng dệt La Khê, La cả, Cổ Đô, Vân Sa, Phùng Xá, Vạn Phúc. Làng lụa Vạn Phúc ở phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, Hà Nội là một làng nghề truyền thống Việt Nam khá nổi tiếng.
Làng nghề thủ công dệt lụa tơ tằm ở Vạn Phúc đã có từ ngàn năm trước, là nơi có nhiều mẫu hoa văn lâu đời bậc nhất Việt Nam, là nơi được chọn để may trang phục cho triều đình. Ứng dụng của các sản phẩm lụa Vạn Phúc đã tạo tiền đề cho ngôi làng trở thành một trong những địa điểm nổi bật trong số các nghề thủ công Việt Nam.
Nhiều loại tơ lụa chất lượng cao được sản xuất tại đây như: lụa, là, gấm, vóc, vân, the, lĩnh, bằng, quế, đoạn, sa, cầu, đũi, kì, nổi tiếng là loại lụa vân, là loại lụa có hoa văn nổi vân trên mặt lụa mượt. Đặc điểm nổi bật của các sản phẩm nghề truyền thống Vạn Phúc là ấm áp vào mùa đông, mát mẻ vào mùa hè và hoa văn trang trí thì rất đa dạng.
Làng lụa Vạn Phúc có hình ảnh cổ kính, là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và phim ảnh. Người dân làng Vạn phúc tự hào vì nghề lụa là nghề nghiệp truyền thống của họ.
Cùng với làng nghề truyền thống Vạn Phúc Hà Đông, Việt Nam cũng có nhiều làng nghề thủ công dệt vải nổi tiếng như làng nghề truyền thống dệt vải Bảy Hiền – TP HCM, làng lụa Duy Xuyên – Quảng Nam, làng lụa Tân Châu – An Giang,…