Dịch Tiếng Dân Tộc Mông

Dịch Tiếng Dân Tộc Mông

PV: Khi vận nước lâm nguy, lời thề độc lập chính là tiếng nói hiệu triệu toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên đánh đuổi quân xâm lược, dẫu phải hi sinh, chúng ta cũng quyết giành cho được hòa bình, độc lập. Và điều này được minh chứng rõ nét, sinh động trong cuộc đương đấu với đế quốc Mỹ, thưa Tiến sĩ Nguyễn Thị Liên?

PV: Khi vận nước lâm nguy, lời thề độc lập chính là tiếng nói hiệu triệu toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên đánh đuổi quân xâm lược, dẫu phải hi sinh, chúng ta cũng quyết giành cho được hòa bình, độc lập. Và điều này được minh chứng rõ nét, sinh động trong cuộc đương đấu với đế quốc Mỹ, thưa Tiến sĩ Nguyễn Thị Liên?

Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội

PV: Trong chiến tranh hay hòa bình, trong khó khăn hay thuận lợi thì Đảng ta cũng luôn kiên định, kiên trì mục tiêu là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì sao chúng ta phải luôn gắn kết hai mệnh đề này chặt chẽ với nhau như vậy?

TS Nguyễn Thị Liên: Trước hết cần khẳng định, độc lập dân tộc và CNXH có mối quan hệ thống nhất, biện chứng với nhau. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã khẳng định độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam.

Đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng ta tiếp tục bổ sung, phát triển trong suốt quá trình lãnh đạo của mình. Như vậy, phải giành được độc lập dân tộc mới xây dựng được chủ nghĩa xã hội và có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập dân tộc.

PV: Nếu tách rời độc lập dân tộc với Chủ nghĩa xã hội thì hệ lụy sẽ như thế nào?

TS Nguyễn Thị Liên: Đã có thời điểm các Đảng Cộng sản phải trả giá cho những sai lầm, khuyết điểm. Mà chúng ta cũng thấy một minh chứng rõ ràng, đó là thời kỳ sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu. Đó chính là ví dụ rõ nét nhất. Song, cần nhận thấy, đây là sự sụp đổ của một mô hình cũ, cụ thể của CNXH đã lạc hậu. Quá trình lãnh đạo cách mạng thì Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta tiếp tục kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình lãnh đạo ấy, thì Đảng và Nhân dân ta vừa thực hiện vừa gắn với nghiên cứu, đánh giá và dự kiến những mô hình phù hợp, những bước đi phù hợp với từng giai đoạn.

PV: Trong bối cảnh thế giới còn đầy những bất ổn, chiến tranh, xung đột thì Việt Nam chúng ta vẫn giữ được hòa bình ổn định. Đó là minh chứng sinh động, rõ nét khẳng định con đường mà chúng ta lựa chọn là đúng đắn?

TS Nguyễn Thị Liên: Chúng ta cũng biết là, hiện nay, mặc dù hòa bình, ổn định vẫn là xu thế chủ đạo, song những diễn biến phức tạp, mất ổn định giữa các nước trong khu vực hay trên thế giới vẫn diễn ra, tồn tại những bất ổn. Và những bất ổn này là nguyên nhân dẫn tới xung đột, bùng phát xung đột, thậm chí là những xung đột sắc tộc, tôn giáo tranh chấp lãnh thổ, tranh chấp tài nguyên, can thiệp lật đổ…vẫn cứ diễn biến phức tạp. Các điểm nóng vẫn tồn tại và mở rộng ở nhiều khu vực trên thế giới.

Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn vừa cảnh báo số người di cư trên thế giới có thể tăng mạnh do tác động của xung đột, khủng hoảng lương thực và biến đổi khí hậu. Trước những diễn biến phức tạp, bất ổn như thế, chúng ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, đem lại độc lập, tự chủ thực sự cho nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân.

PV: Mỗi thời kỳ cách mạng của đất nước lại đặt ra cho chúng ta những cơ hội, thách thức mới. Vậy trong tình hình hiện nay, thì đâu được coi là mẫu số chung để chúng ta có thể quy tụ, tập hợp được sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân?

TS Nguyễn Thị Liên: Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân tộc. Sau này, tư tưởng của Bác được Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Tư tưởng đoàn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc giữ vị trí đặc biệt quan trọng, nhất quán và xuyên suốt trong đường lối, chủ trương của Đảng.

Trải qua các thời kỳ cách mạng, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được hoàn thiện, phát triển. Tại Đại hội lần thứ XIII, Đảng xác định mục tiêu của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là: “Phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Như vậy là mục tiêu đó cũng chính là đích đến quy tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự đồng nhất giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với mục tiêu của khối đại đoàn kết toàn dân tộc cho thấy sự hòa quyện giữa ý Đảng - Lòng dân; giữa mục tiêu cách mạng của Đảng với nguyện vọng của toàn thể nhân dân, xuất phát từ nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Như vậy, đại đoàn kết toàn dân tộc là giá trị cốt lõi, là đường lối chiến lược, là cội nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu của cách mạng Việt Nam, có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Dân tộc & Phát triển (tiếng Mông) (3/10/2024)

Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).

Đồng bào dân tộc Thái Yên Bái với nghề dệt truyền thống

Theo các nhà khoa học và căn cứ vào cuốn sử chép tay của người Thái “Quăm tô Mường” (chuyện kể bản mường) và “Táy Pú sấc” (Bước đường chinh chiến của cha ông) thì vào đầu thế kỷ XI, nhóm người Thái do anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần dẫn đầu đến Việt Nam, nơi đặt chân đầu tiên là Mường Min (xã Gia Hội, huyện Văn Chấn). “...bộ phận người Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai thượng sông Hồng đầu tiên đến khai phá cánh đồng Mường Lò (Văn Chấn)…”

Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái còn tự gọi mình là “Táy”, “ Táy Khao” là Thái Trắng, “Táy Đăm” là Thái Đen. Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống. Áo cỏm người Thái trắng thường may bằng vải bông màu trắng, cổ xẻ chạy xuống theo hình chữ V. Còn áo cỏm người Thái đen may bằng vải chàm đen, cổ áo đứng 3 phân ôm khít lấy cổ. Ngoài ra trong các ngày hội vui thiếu nữ Thái trắng thường đội khăn trắng hoặc nón Tát rộng vành, thiếu nữ Thái đen đội khăn piêu. Nón Tát và khăn piêu đều mang đậm sắc thái văn hóa, làm tăng vẻ duyên dáng của các cô gái Thái. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và nằm trong dòng ngôn ngữ Nam Á. Chữ Thái xuất hiện từ rất lâu - khi Lò Lạng Chượng xưng chúa Mường, mở mang khai phá Mường Lò, thiết lập xã hội người Thái, định ra luật tục... thì trong các Mo Mường đã ghi lại những sự việc này trên tre nứa, giấy dó, vỏ cây. Ngày nay ở Mường Lò còn rất ít người biết viết và biết đọc chữ Thái cổ.

Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với sở trường trồng lúa nước, trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của người Thái mà Yên Bái có được cánh đồng nổi tiếng là Mường Lò, Tú Lệ hay Mường Than, Mường Tấc trước đây. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt người Thái sử dụng nhiều lúa nếp. Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, tạo mương, bắc máng đưa nước vào ruộng. Một phần thu nhập nữa là do chăn nuôi gia súc, thủy sản. Cá ruộng là yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày - Thái. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào Thái là làm đệm bông lau, dệt vải thổ cẩm với những họa tiết hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và có chất lượng tốt.

Kinh tế truyền thống của người Thái Mường Lò là nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi quanh năm mưa thuận gió hoà kết hợp với các kỹ thuật canh tác truyền thống (Người Thái đen nơi đây nổi tiếng với các kỹ thuật canh tác như các phương pháp "dẫn thuỷ nhập điền" bằng hệ thống mương - phai - lái - lín, mà trong đó chiếc cọn nước là một phát minh lớn của đồng bào trong việc lợi dụng chính sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp "Hỏa - Canh - Thủy - Nậu" (đốt rơm rạ cày bừa sản xuất nông nghiệp”. Cùng với trồng trọt thì chăn nuôi cũng được phát triển rất mạnh tại đây, như trâu, bò, dê, ngựa… Bên cạnh gia súc, thì gia cầm, thủy cầm là nguồn thực phẩm chính được chăn nuôi để cải thiện các bữa ăn hàng ngày nhất là trong các dịp lễ, tết, hội. Trước đây săn bắt hái lượm đã mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho đồng bào, ngày nay nghề săn bắt cá vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng người Thái ở Mường Lò với nhiều kỹ thuật đánh bắt điêu luyện.

Người Thái Mường Lò phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi hàng hóa với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm, thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc, mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị khá cao cả về thẩm mỹ, văn hóa và giá trị sử dụng.

Người Thái Yên Bái ở nhà sàn, hai đầu hồi nhà có 2 “khau cút”. Trong nhà đáng chú ý là chiếc cột sàn hóng luông đặt bàn thờ ma hay tổ tiên (khô hóng). Nơi này chỉ có người chủ gia đình là nam giới được nằm. Nhà sàn Thái trước đây chủ yếu lợp bằng giang và ván thông, ngày nay theo sự phát triển, vật liệu lợp nhà dần dần đã được thay thế bằng các loại mới như ngói, và tấm lợp.

Gia đình người Thái thường có 3 đến 4 thế hệ chung sống đầm ấm, ngày nay mỗi gia đình thường có từ 1 đến 3 thế hệ, các gia đình lớn “tứ đại” không còn thấy xuất hiện nhiều trong các bản làng người Thái ở Yên Bái. Gia đình người Thái có tính bền chặt cao, vợ chồng sống chung thủy, ít mâu thuẫn bởi các giá trị trong truyền thống gia đình được quy định và điều chỉnh bằng những luật tục hết sức chặt chẽ. Tục ở rể vẫn còn phổ biến, ở cho đến khi vợ chồng trẻ có con mới về nhà chồng. Lễ hỏi cưới được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, nhà trai lo các lễ vật đi dạm hỏi, nhà gái lo đủ 3 bộ chăn đệm gánh về nhà trai trong ngày cưới. Trong đó có đủ chăn, đệm, gối gánh riêng cho bố mẹ chồng. Thiếu nữ Thái đen khi chưa lấy chồng thì búi tóc ngả về phía sau, khi đã xây dựng gia đình thì tóc được búi thẳng đứng, gọi là tằng cẩu. Lễ tằng cẩu diễn ra rất thiêng liêng xúc động ngay khi cô dâu về đến nhà chồng.

Tín ngưỡng truyền thống của người Thái Mường Lò hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài thờ cúng tổ tiên (hay còn gọi là ma nhà phi hươn), thì người Thái còn thờ các thần thánh khác như thờ cúng bản mường, ruộng đồng, thờ thần then của các dòng họ có người làm ma then… Đồng bào quan niệm chết là tiếp tục sống ở thế giới bên kia nên đám ma là lễ tiễn đưa người chết về “Mường trời”. Lễ tang của người Thái trắng diễn ra thông thường như các dân tộc khác là tiễn đưa người quá cố chôn cất sau khi mất, còn người Thái đen có tục thiêu xác.

Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Lò, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then… cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của người Thái ở Yên Bái.

Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các làn điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. “Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong cách sống bình lặng nhưng lãng mạn, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội nàng Han, nhiều trò chơi như “Hạn khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)...

Người Thái có các loại nhạc cụ dân tộc vẫn được lưu truyền như khèn bè và 7 loại Pí (sáo) rất độc đáo như “Pí Tót” là loại sáo chỉ một lỗ, “ Pí Pặp” là sáo của tình yêu dùng để gọi nhau tâm tình, “Pí Rạ” dùng ống rạ để thổi vv ...

Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca nổi tiếng như “Xống trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương... các cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: Quăm Tố Mương (chuyện kể bản mường), Cầm Hánh Tạp sấc klơng (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng)... nói lên lịch sử di thiên và truyền thống văn hóa của đồng bào Thái vùng Nghĩa Lộ - Văn Chấn.

Tắm suối là tập quán lâu đời của đồng bào Thái nhất là đối với phụ nữ và thiếu nữ. Suối Nung, suối nước nóng ở Sơn A, Tú Lệ là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa có nhiều nét riêng biệt này.

Người Thái mặc áo cỏm và váy dài, trang phục, trang sức của người Thái Mường Lò rất đặc sắc. Người Thái là một trong những dân tộc được xem là khá cầu kỳ trong ăn mặc, ngay từ nhỏ các bé gái đã được mẹ hướng dẫn thắt “ Xài ẻo” để lớn lên có cơ thể “Eo kíu Meng Po” (thắt đáy lưng con tò vò) trước khi tham gia các cuộc vui ngoài bộ váy áo cỏm, phụ nữ Thái còn chú ý đến “Tằng cẩu” và vòng cổ tay, xà tích (dây bạc). Thiếu nữ Thái đen chú ý đến nếp gấp khăn piêu, thiếu nữ Thái trắng ở Tú Lệ quan tâm đến khuôn mặt, mái tóc, hàng “Mắc pém” trên ngực. Nam giới thì đơn giản hơn, họ ít bận tâm đến trang phục, ít tham gia vào cuộc múa xòe tập thể hay các trò chơi khác mà ham bắt cá suối và bẫy chim.

Sinh hoạt ẩm thực của đồng bào Thái cũng khá cầu kỳ trong cách chế biến, sắp đặt, sử dụng gia vị và các phụ gia, gia vị nào đi theo món ăn đó, một món ăn của người Thái thường được chế biến khá công phu với các kỹ thuật chế biến làm sao không mất đi các hương vị đặc trưng của món ăn. Cách chế biến của người Thái có nhiều loại như nướng, lam, xôi, đồ, ủ, hấp, luộc, sấy, xào, rán và ăn sống trong đó cách xôi và nướng, lam, sấy được đồng bào sử dụng nhiều hơn cả. Cá là một thực phẩm khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người dân trong đó món cá nướng “Pa Pỉnh tộp” là một đặc sản nổi tiếng của người Thái Nghĩa Lộ.

Đồng bào Thái tự hào với nguồn gốc lịch sử dân tộc, với truyền thống đấu tranh anh dũng và tự hào là cư dân nông nghiệp có nền văn minh lúa nước lâu đời. Đồng bào đoàn kết với các dân tộc anh em vươn lên xóa đói, giảm nghèo góp phần đưa tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh giàu mạnh.

(Tài liệu được tham khảo từ cuốn “Một số đặc trưng các đồng bào dân tộc tỉnh Yên Bái", do Ban Dân vận Tỉnh ủy xuất bản)

Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).Theo các nhà khoa học và căn cứ vào cuốn sử chép tay của người Thái “Quăm tô Mường” (chuyện kể bản mường) và “Táy Pú sấc” (Bước đường chinh chiến của cha ông) thì vào đầu thế kỷ XI, nhóm người Thái do anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần dẫn đầu đến Việt Nam, nơi đặt chân đầu tiên là Mường Min (xã Gia Hội, huyện Văn Chấn). “...bộ phận người Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai thượng sông Hồng đầu tiên đến khai phá cánh đồng Mường Lò (Văn Chấn)…” Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái còn tự gọi mình là “Táy”, “ Táy Khao” là Thái Trắng, “Táy Đăm” là Thái Đen. Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống. Áo cỏm người Thái trắng thường may bằng vải bông màu trắng, cổ xẻ chạy xuống theo hình chữ V. Còn áo cỏm người Thái đen may bằng vải chàm đen, cổ áo đứng 3 phân ôm khít lấy cổ. Ngoài ra trong các ngày hội vui thiếu nữ Thái trắng thường đội khăn trắng hoặc nón Tát rộng vành, thiếu nữ Thái đen đội khăn piêu. Nón Tát và khăn piêu đều mang đậm sắc thái văn hóa, làm tăng vẻ duyên dáng của các cô gái Thái. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và nằm trong dòng ngôn ngữ Nam Á. Chữ Thái xuất hiện từ rất lâu - khi Lò Lạng Chượng xưng chúa Mường, mở mang khai phá Mường Lò, thiết lập xã hội người Thái, định ra luật tục... thì trong các Mo Mường đã ghi lại những sự việc này trên tre nứa, giấy dó, vỏ cây. Ngày nay ở Mường Lò còn rất ít người biết viết và biết đọc chữ Thái cổ. Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với sở trường trồng lúa nước, trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của người Thái mà Yên Bái có được cánh đồng nổi tiếng là Mường Lò, Tú Lệ hay Mường Than, Mường Tấc trước đây. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt người Thái sử dụng nhiều lúa nếp. Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, tạo mương, bắc máng đưa nước vào ruộng. Một phần thu nhập nữa là do chăn nuôi gia súc, thủy sản. Cá ruộng là yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày - Thái. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào Thái là làm đệm bông lau, dệt vải thổ cẩm với những họa tiết hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và có chất lượng tốt. Kinh tế truyền thống của người Thái Mường Lò là nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi quanh năm mưa thuận gió hoà kết hợp với các kỹ thuật canh tác truyền thống (Người Thái đen nơi đây nổi tiếng với các kỹ thuật canh tác như các phương pháp "dẫn thuỷ nhập điền" bằng hệ thống mương - phai - lái - lín, mà trong đó chiếc cọn nước là một phát minh lớn của đồng bào trong việc lợi dụng chính sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp "Hỏa - Canh - Thủy - Nậu" (đốt rơm rạ cày bừa sản xuất nông nghiệp”. Cùng với trồng trọt thì chăn nuôi cũng được phát triển rất mạnh tại đây, như trâu, bò, dê, ngựa… Bên cạnh gia súc, thì gia cầm, thủy cầm là nguồn thực phẩm chính được chăn nuôi để cải thiện các bữa ăn hàng ngày nhất là trong các dịp lễ, tết, hội. Trước đây săn bắt hái lượm đã mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho đồng bào, ngày nay nghề săn bắt cá vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng người Thái ở Mường Lò với nhiều kỹ thuật đánh bắt điêu luyện. Người Thái Mường Lò phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi hàng hóa với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm, thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc, mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị khá cao cả về thẩm mỹ, văn hóa và giá trị sử dụng. Người Thái Yên Bái ở nhà sàn, hai đầu hồi nhà có 2 “khau cút”. Trong nhà đáng chú ý là chiếc cột sàn hóng luông đặt bàn thờ ma hay tổ tiên (khô hóng). Nơi này chỉ có người chủ gia đình là nam giới được nằm. Nhà sàn Thái trước đây chủ yếu lợp bằng giang và ván thông, ngày nay theo sự phát triển, vật liệu lợp nhà dần dần đã được thay thế bằng các loại mới như ngói, và tấm lợp. Gia đình người Thái thường có 3 đến 4 thế hệ chung sống đầm ấm, ngày nay mỗi gia đình thường có từ 1 đến 3 thế hệ, các gia đình lớn “tứ đại” không còn thấy xuất hiện nhiều trong các bản làng người Thái ở Yên Bái. Gia đình người Thái có tính bền chặt cao, vợ chồng sống chung thủy, ít mâu thuẫn bởi các giá trị trong truyền thống gia đình được quy định và điều chỉnh bằng những luật tục hết sức chặt chẽ. Tục ở rể vẫn còn phổ biến, ở cho đến khi vợ chồng trẻ có con mới về nhà chồng. Lễ hỏi cưới được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, nhà trai lo các lễ vật đi dạm hỏi, nhà gái lo đủ 3 bộ chăn đệm gánh về nhà trai trong ngày cưới. Trong đó có đủ chăn, đệm, gối gánh riêng cho bố mẹ chồng. Thiếu nữ Thái đen khi chưa lấy chồng thì búi tóc ngả về phía sau, khi đã xây dựng gia đình thì tóc được búi thẳng đứng, gọi là tằng cẩu. Lễ tằng cẩu diễn ra rất thiêng liêng xúc động ngay khi cô dâu về đến nhà chồng. Tín ngưỡng truyền thống của người Thái Mường Lò hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài thờ cúng tổ tiên (hay còn gọi là ma nhà phi hươn), thì người Thái còn thờ các thần thánh khác như thờ cúng bản mường, ruộng đồng, thờ thần then của các dòng họ có người làm ma then… Đồng bào quan niệm chết là tiếp tục sống ở thế giới bên kia nên đám ma là lễ tiễn đưa người chết về “Mường trời”. Lễ tang của người Thái trắng diễn ra thông thường như các dân tộc khác là tiễn đưa người quá cố chôn cất sau khi mất, còn người Thái đen có tục thiêu xác. Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Lò, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then… cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của người Thái ở Yên Bái. Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các làn điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. “Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong cách sống bình lặng nhưng lãng mạn, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội nàng Han, nhiều trò chơi như “Hạn khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)... Người Thái có các loại nhạc cụ dân tộc vẫn được lưu truyền như khèn bè và 7 loại Pí (sáo) rất độc đáo như “Pí Tót” là loại sáo chỉ một lỗ, “ Pí Pặp” là sáo của tình yêu dùng để gọi nhau tâm tình, “Pí Rạ” dùng ống rạ để thổi vv ... Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca nổi tiếng như “Xống trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương... các cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: Quăm Tố Mương (chuyện kể bản mường), Cầm Hánh Tạp sấc klơng (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng)... nói lên lịch sử di thiên và truyền thống văn hóa của đồng bào Thái vùng Nghĩa Lộ - Văn Chấn. Tắm suối là tập quán lâu đời của đồng bào Thái nhất là đối với phụ nữ và thiếu nữ. Suối Nung, suối nước nóng ở Sơn A, Tú Lệ là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa có nhiều nét riêng biệt này. Người Thái mặc áo cỏm và váy dài, trang phục, trang sức của người Thái Mường Lò rất đặc sắc. Người Thái là một trong những dân tộc được xem là khá cầu kỳ trong ăn mặc, ngay từ nhỏ các bé gái đã được mẹ hướng dẫn thắt “ Xài ẻo” để lớn lên có cơ thể “Eo kíu Meng Po” (thắt đáy lưng con tò vò) trước khi tham gia các cuộc vui ngoài bộ váy áo cỏm, phụ nữ Thái còn chú ý đến “Tằng cẩu” và vòng cổ tay, xà tích (dây bạc). Thiếu nữ Thái đen chú ý đến nếp gấp khăn piêu, thiếu nữ Thái trắng ở Tú Lệ quan tâm đến khuôn mặt, mái tóc, hàng “Mắc pém” trên ngực. Nam giới thì đơn giản hơn, họ ít bận tâm đến trang phục, ít tham gia vào cuộc múa xòe tập thể hay các trò chơi khác mà ham bắt cá suối và bẫy chim. Sinh hoạt ẩm thực của đồng bào Thái cũng khá cầu kỳ trong cách chế biến, sắp đặt, sử dụng gia vị và các phụ gia, gia vị nào đi theo món ăn đó, một món ăn của người Thái thường được chế biến khá công phu với các kỹ thuật chế biến làm sao không mất đi các hương vị đặc trưng của món ăn. Cách chế biến của người Thái có nhiều loại như nướng, lam, xôi, đồ, ủ, hấp, luộc, sấy, xào, rán và ăn sống trong đó cách xôi và nướng, lam, sấy được đồng bào sử dụng nhiều hơn cả. Cá là một thực phẩm khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người dân trong đó món cá nướng “Pa Pỉnh tộp” là một đặc sản nổi tiếng của người Thái Nghĩa Lộ. Đồng bào Thái tự hào với nguồn gốc lịch sử dân tộc, với truyền thống đấu tranh anh dũng và tự hào là cư dân nông nghiệp có nền văn minh lúa nước lâu đời. Đồng bào đoàn kết với các dân tộc anh em vươn lên xóa đói, giảm nghèo góp phần đưa tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh giàu mạnh. (Tài liệu được tham khảo từ cuốn “Một số đặc trưng các đồng bào dân tộc tỉnh Yên Bái", do Ban Dân vận Tỉnh ủy xuất bản)

Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).

Đồng bào dân tộc Thái Yên Bái với nghề dệt truyền thống

Theo các nhà khoa học và căn cứ vào cuốn sử chép tay của người Thái “Quăm tô Mường” (chuyện kể bản mường) và “Táy Pú sấc” (Bước đường chinh chiến của cha ông) thì vào đầu thế kỷ XI, nhóm người Thái do anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần dẫn đầu đến Việt Nam, nơi đặt chân đầu tiên là Mường Min (xã Gia Hội, huyện Văn Chấn). “...bộ phận người Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai thượng sông Hồng đầu tiên đến khai phá cánh đồng Mường Lò (Văn Chấn)…”

Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái còn tự gọi mình là “Táy”, “ Táy Khao” là Thái Trắng, “Táy Đăm” là Thái Đen. Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống. Áo cỏm người Thái trắng thường may bằng vải bông màu trắng, cổ xẻ chạy xuống theo hình chữ V. Còn áo cỏm người Thái đen may bằng vải chàm đen, cổ áo đứng 3 phân ôm khít lấy cổ. Ngoài ra trong các ngày hội vui thiếu nữ Thái trắng thường đội khăn trắng hoặc nón Tát rộng vành, thiếu nữ Thái đen đội khăn piêu. Nón Tát và khăn piêu đều mang đậm sắc thái văn hóa, làm tăng vẻ duyên dáng của các cô gái Thái. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và nằm trong dòng ngôn ngữ Nam Á. Chữ Thái xuất hiện từ rất lâu - khi Lò Lạng Chượng xưng chúa Mường, mở mang khai phá Mường Lò, thiết lập xã hội người Thái, định ra luật tục... thì trong các Mo Mường đã ghi lại những sự việc này trên tre nứa, giấy dó, vỏ cây. Ngày nay ở Mường Lò còn rất ít người biết viết và biết đọc chữ Thái cổ.

Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với sở trường trồng lúa nước, trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của người Thái mà Yên Bái có được cánh đồng nổi tiếng là Mường Lò, Tú Lệ hay Mường Than, Mường Tấc trước đây. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt người Thái sử dụng nhiều lúa nếp. Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, tạo mương, bắc máng đưa nước vào ruộng. Một phần thu nhập nữa là do chăn nuôi gia súc, thủy sản. Cá ruộng là yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày - Thái. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào Thái là làm đệm bông lau, dệt vải thổ cẩm với những họa tiết hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và có chất lượng tốt.

Kinh tế truyền thống của người Thái Mường Lò là nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi quanh năm mưa thuận gió hoà kết hợp với các kỹ thuật canh tác truyền thống (Người Thái đen nơi đây nổi tiếng với các kỹ thuật canh tác như các phương pháp "dẫn thuỷ nhập điền" bằng hệ thống mương - phai - lái - lín, mà trong đó chiếc cọn nước là một phát minh lớn của đồng bào trong việc lợi dụng chính sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp "Hỏa - Canh - Thủy - Nậu" (đốt rơm rạ cày bừa sản xuất nông nghiệp”. Cùng với trồng trọt thì chăn nuôi cũng được phát triển rất mạnh tại đây, như trâu, bò, dê, ngựa… Bên cạnh gia súc, thì gia cầm, thủy cầm là nguồn thực phẩm chính được chăn nuôi để cải thiện các bữa ăn hàng ngày nhất là trong các dịp lễ, tết, hội. Trước đây săn bắt hái lượm đã mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho đồng bào, ngày nay nghề săn bắt cá vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng người Thái ở Mường Lò với nhiều kỹ thuật đánh bắt điêu luyện.

Người Thái Mường Lò phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi hàng hóa với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm, thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc, mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị khá cao cả về thẩm mỹ, văn hóa và giá trị sử dụng.

Người Thái Yên Bái ở nhà sàn, hai đầu hồi nhà có 2 “khau cút”. Trong nhà đáng chú ý là chiếc cột sàn hóng luông đặt bàn thờ ma hay tổ tiên (khô hóng). Nơi này chỉ có người chủ gia đình là nam giới được nằm. Nhà sàn Thái trước đây chủ yếu lợp bằng giang và ván thông, ngày nay theo sự phát triển, vật liệu lợp nhà dần dần đã được thay thế bằng các loại mới như ngói, và tấm lợp.

Gia đình người Thái thường có 3 đến 4 thế hệ chung sống đầm ấm, ngày nay mỗi gia đình thường có từ 1 đến 3 thế hệ, các gia đình lớn “tứ đại” không còn thấy xuất hiện nhiều trong các bản làng người Thái ở Yên Bái. Gia đình người Thái có tính bền chặt cao, vợ chồng sống chung thủy, ít mâu thuẫn bởi các giá trị trong truyền thống gia đình được quy định và điều chỉnh bằng những luật tục hết sức chặt chẽ. Tục ở rể vẫn còn phổ biến, ở cho đến khi vợ chồng trẻ có con mới về nhà chồng. Lễ hỏi cưới được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, nhà trai lo các lễ vật đi dạm hỏi, nhà gái lo đủ 3 bộ chăn đệm gánh về nhà trai trong ngày cưới. Trong đó có đủ chăn, đệm, gối gánh riêng cho bố mẹ chồng. Thiếu nữ Thái đen khi chưa lấy chồng thì búi tóc ngả về phía sau, khi đã xây dựng gia đình thì tóc được búi thẳng đứng, gọi là tằng cẩu. Lễ tằng cẩu diễn ra rất thiêng liêng xúc động ngay khi cô dâu về đến nhà chồng.

Tín ngưỡng truyền thống của người Thái Mường Lò hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài thờ cúng tổ tiên (hay còn gọi là ma nhà phi hươn), thì người Thái còn thờ các thần thánh khác như thờ cúng bản mường, ruộng đồng, thờ thần then của các dòng họ có người làm ma then… Đồng bào quan niệm chết là tiếp tục sống ở thế giới bên kia nên đám ma là lễ tiễn đưa người chết về “Mường trời”. Lễ tang của người Thái trắng diễn ra thông thường như các dân tộc khác là tiễn đưa người quá cố chôn cất sau khi mất, còn người Thái đen có tục thiêu xác.

Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Lò, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then… cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của người Thái ở Yên Bái.

Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các làn điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. “Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong cách sống bình lặng nhưng lãng mạn, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội nàng Han, nhiều trò chơi như “Hạn khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)...

Người Thái có các loại nhạc cụ dân tộc vẫn được lưu truyền như khèn bè và 7 loại Pí (sáo) rất độc đáo như “Pí Tót” là loại sáo chỉ một lỗ, “ Pí Pặp” là sáo của tình yêu dùng để gọi nhau tâm tình, “Pí Rạ” dùng ống rạ để thổi vv ...

Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca nổi tiếng như “Xống trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương... các cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: Quăm Tố Mương (chuyện kể bản mường), Cầm Hánh Tạp sấc klơng (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng)... nói lên lịch sử di thiên và truyền thống văn hóa của đồng bào Thái vùng Nghĩa Lộ - Văn Chấn.

Tắm suối là tập quán lâu đời của đồng bào Thái nhất là đối với phụ nữ và thiếu nữ. Suối Nung, suối nước nóng ở Sơn A, Tú Lệ là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa có nhiều nét riêng biệt này.

Người Thái mặc áo cỏm và váy dài, trang phục, trang sức của người Thái Mường Lò rất đặc sắc. Người Thái là một trong những dân tộc được xem là khá cầu kỳ trong ăn mặc, ngay từ nhỏ các bé gái đã được mẹ hướng dẫn thắt “ Xài ẻo” để lớn lên có cơ thể “Eo kíu Meng Po” (thắt đáy lưng con tò vò) trước khi tham gia các cuộc vui ngoài bộ váy áo cỏm, phụ nữ Thái còn chú ý đến “Tằng cẩu” và vòng cổ tay, xà tích (dây bạc). Thiếu nữ Thái đen chú ý đến nếp gấp khăn piêu, thiếu nữ Thái trắng ở Tú Lệ quan tâm đến khuôn mặt, mái tóc, hàng “Mắc pém” trên ngực. Nam giới thì đơn giản hơn, họ ít bận tâm đến trang phục, ít tham gia vào cuộc múa xòe tập thể hay các trò chơi khác mà ham bắt cá suối và bẫy chim.

Sinh hoạt ẩm thực của đồng bào Thái cũng khá cầu kỳ trong cách chế biến, sắp đặt, sử dụng gia vị và các phụ gia, gia vị nào đi theo món ăn đó, một món ăn của người Thái thường được chế biến khá công phu với các kỹ thuật chế biến làm sao không mất đi các hương vị đặc trưng của món ăn. Cách chế biến của người Thái có nhiều loại như nướng, lam, xôi, đồ, ủ, hấp, luộc, sấy, xào, rán và ăn sống trong đó cách xôi và nướng, lam, sấy được đồng bào sử dụng nhiều hơn cả. Cá là một thực phẩm khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người dân trong đó món cá nướng “Pa Pỉnh tộp” là một đặc sản nổi tiếng của người Thái Nghĩa Lộ.

Đồng bào Thái tự hào với nguồn gốc lịch sử dân tộc, với truyền thống đấu tranh anh dũng và tự hào là cư dân nông nghiệp có nền văn minh lúa nước lâu đời. Đồng bào đoàn kết với các dân tộc anh em vươn lên xóa đói, giảm nghèo góp phần đưa tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh giàu mạnh.

(Tài liệu được tham khảo từ cuốn “Một số đặc trưng các đồng bào dân tộc tỉnh Yên Bái", do Ban Dân vận Tỉnh ủy xuất bản)

Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, toàn tỉnh Yên Bái có 61.964 người Thái sinh sống tập trung tại 9 huyện, thị xã, thành phố. Trong đó có 30.611 nam, 31.353 nữ, tập trung đông nhất tại Thị xã Nghĩa Lộ (15.161 người); các huyện: Văn Chấn (37.638 người); Trạm Tấu (4.433 người); Mù Cang Chải (3.186 người).Theo các nhà khoa học và căn cứ vào cuốn sử chép tay của người Thái “Quăm tô Mường” (chuyện kể bản mường) và “Táy Pú sấc” (Bước đường chinh chiến của cha ông) thì vào đầu thế kỷ XI, nhóm người Thái do anh em Tạo Xuông, Tạo Ngần dẫn đầu đến Việt Nam, nơi đặt chân đầu tiên là Mường Min (xã Gia Hội, huyện Văn Chấn). “...bộ phận người Thái Đen từ Mường Ôm, Mường Ai thượng sông Hồng đầu tiên đến khai phá cánh đồng Mường Lò (Văn Chấn)…” Ở Yên Bái, tên người Thái được dùng chính thức và phổ biến. Người Thái còn tự gọi mình là “Táy”, “ Táy Khao” là Thái Trắng, “Táy Đăm” là Thái Đen. Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống. Áo cỏm người Thái trắng thường may bằng vải bông màu trắng, cổ xẻ chạy xuống theo hình chữ V. Còn áo cỏm người Thái đen may bằng vải chàm đen, cổ áo đứng 3 phân ôm khít lấy cổ. Ngoài ra trong các ngày hội vui thiếu nữ Thái trắng thường đội khăn trắng hoặc nón Tát rộng vành, thiếu nữ Thái đen đội khăn piêu. Nón Tát và khăn piêu đều mang đậm sắc thái văn hóa, làm tăng vẻ duyên dáng của các cô gái Thái. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái và nằm trong dòng ngôn ngữ Nam Á. Chữ Thái xuất hiện từ rất lâu - khi Lò Lạng Chượng xưng chúa Mường, mở mang khai phá Mường Lò, thiết lập xã hội người Thái, định ra luật tục... thì trong các Mo Mường đã ghi lại những sự việc này trên tre nứa, giấy dó, vỏ cây. Ngày nay ở Mường Lò còn rất ít người biết viết và biết đọc chữ Thái cổ. Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với sở trường trồng lúa nước, trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của người Thái mà Yên Bái có được cánh đồng nổi tiếng là Mường Lò, Tú Lệ hay Mường Than, Mường Tấc trước đây. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt người Thái sử dụng nhiều lúa nếp. Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, tạo mương, bắc máng đưa nước vào ruộng. Một phần thu nhập nữa là do chăn nuôi gia súc, thủy sản. Cá ruộng là yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày - Thái. Nghề thủ công truyền thống của đồng bào Thái là làm đệm bông lau, dệt vải thổ cẩm với những họa tiết hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và có chất lượng tốt. Kinh tế truyền thống của người Thái Mường Lò là nền kinh tế trồng trọt và chăn nuôi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi quanh năm mưa thuận gió hoà kết hợp với các kỹ thuật canh tác truyền thống (Người Thái đen nơi đây nổi tiếng với các kỹ thuật canh tác như các phương pháp "dẫn thuỷ nhập điền" bằng hệ thống mương - phai - lái - lín, mà trong đó chiếc cọn nước là một phát minh lớn của đồng bào trong việc lợi dụng chính sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp "Hỏa - Canh - Thủy - Nậu" (đốt rơm rạ cày bừa sản xuất nông nghiệp”. Cùng với trồng trọt thì chăn nuôi cũng được phát triển rất mạnh tại đây, như trâu, bò, dê, ngựa… Bên cạnh gia súc, thì gia cầm, thủy cầm là nguồn thực phẩm chính được chăn nuôi để cải thiện các bữa ăn hàng ngày nhất là trong các dịp lễ, tết, hội. Trước đây săn bắt hái lượm đã mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho đồng bào, ngày nay nghề săn bắt cá vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng người Thái ở Mường Lò với nhiều kỹ thuật đánh bắt điêu luyện. Người Thái Mường Lò phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi hàng hóa với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm, thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc, mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị khá cao cả về thẩm mỹ, văn hóa và giá trị sử dụng. Người Thái Yên Bái ở nhà sàn, hai đầu hồi nhà có 2 “khau cút”. Trong nhà đáng chú ý là chiếc cột sàn hóng luông đặt bàn thờ ma hay tổ tiên (khô hóng). Nơi này chỉ có người chủ gia đình là nam giới được nằm. Nhà sàn Thái trước đây chủ yếu lợp bằng giang và ván thông, ngày nay theo sự phát triển, vật liệu lợp nhà dần dần đã được thay thế bằng các loại mới như ngói, và tấm lợp. Gia đình người Thái thường có 3 đến 4 thế hệ chung sống đầm ấm, ngày nay mỗi gia đình thường có từ 1 đến 3 thế hệ, các gia đình lớn “tứ đại” không còn thấy xuất hiện nhiều trong các bản làng người Thái ở Yên Bái. Gia đình người Thái có tính bền chặt cao, vợ chồng sống chung thủy, ít mâu thuẫn bởi các giá trị trong truyền thống gia đình được quy định và điều chỉnh bằng những luật tục hết sức chặt chẽ. Tục ở rể vẫn còn phổ biến, ở cho đến khi vợ chồng trẻ có con mới về nhà chồng. Lễ hỏi cưới được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, nhà trai lo các lễ vật đi dạm hỏi, nhà gái lo đủ 3 bộ chăn đệm gánh về nhà trai trong ngày cưới. Trong đó có đủ chăn, đệm, gối gánh riêng cho bố mẹ chồng. Thiếu nữ Thái đen khi chưa lấy chồng thì búi tóc ngả về phía sau, khi đã xây dựng gia đình thì tóc được búi thẳng đứng, gọi là tằng cẩu. Lễ tằng cẩu diễn ra rất thiêng liêng xúc động ngay khi cô dâu về đến nhà chồng. Tín ngưỡng truyền thống của người Thái Mường Lò hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài thờ cúng tổ tiên (hay còn gọi là ma nhà phi hươn), thì người Thái còn thờ các thần thánh khác như thờ cúng bản mường, ruộng đồng, thờ thần then của các dòng họ có người làm ma then… Đồng bào quan niệm chết là tiếp tục sống ở thế giới bên kia nên đám ma là lễ tiễn đưa người chết về “Mường trời”. Lễ tang của người Thái trắng diễn ra thông thường như các dân tộc khác là tiễn đưa người quá cố chôn cất sau khi mất, còn người Thái đen có tục thiêu xác. Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Lò, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then… cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của người Thái ở Yên Bái. Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các làn điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. “Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong cách sống bình lặng nhưng lãng mạn, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội nàng Han, nhiều trò chơi như “Hạn khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)... Người Thái có các loại nhạc cụ dân tộc vẫn được lưu truyền như khèn bè và 7 loại Pí (sáo) rất độc đáo như “Pí Tót” là loại sáo chỉ một lỗ, “ Pí Pặp” là sáo của tình yêu dùng để gọi nhau tâm tình, “Pí Rạ” dùng ống rạ để thổi vv ... Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca nổi tiếng như “Xống trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương... các cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: Quăm Tố Mương (chuyện kể bản mường), Cầm Hánh Tạp sấc klơng (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng)... nói lên lịch sử di thiên và truyền thống văn hóa của đồng bào Thái vùng Nghĩa Lộ - Văn Chấn. Tắm suối là tập quán lâu đời của đồng bào Thái nhất là đối với phụ nữ và thiếu nữ. Suối Nung, suối nước nóng ở Sơn A, Tú Lệ là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa có nhiều nét riêng biệt này. Người Thái mặc áo cỏm và váy dài, trang phục, trang sức của người Thái Mường Lò rất đặc sắc. Người Thái là một trong những dân tộc được xem là khá cầu kỳ trong ăn mặc, ngay từ nhỏ các bé gái đã được mẹ hướng dẫn thắt “ Xài ẻo” để lớn lên có cơ thể “Eo kíu Meng Po” (thắt đáy lưng con tò vò) trước khi tham gia các cuộc vui ngoài bộ váy áo cỏm, phụ nữ Thái còn chú ý đến “Tằng cẩu” và vòng cổ tay, xà tích (dây bạc). Thiếu nữ Thái đen chú ý đến nếp gấp khăn piêu, thiếu nữ Thái trắng ở Tú Lệ quan tâm đến khuôn mặt, mái tóc, hàng “Mắc pém” trên ngực. Nam giới thì đơn giản hơn, họ ít bận tâm đến trang phục, ít tham gia vào cuộc múa xòe tập thể hay các trò chơi khác mà ham bắt cá suối và bẫy chim. Sinh hoạt ẩm thực của đồng bào Thái cũng khá cầu kỳ trong cách chế biến, sắp đặt, sử dụng gia vị và các phụ gia, gia vị nào đi theo món ăn đó, một món ăn của người Thái thường được chế biến khá công phu với các kỹ thuật chế biến làm sao không mất đi các hương vị đặc trưng của món ăn. Cách chế biến của người Thái có nhiều loại như nướng, lam, xôi, đồ, ủ, hấp, luộc, sấy, xào, rán và ăn sống trong đó cách xôi và nướng, lam, sấy được đồng bào sử dụng nhiều hơn cả. Cá là một thực phẩm khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người dân trong đó món cá nướng “Pa Pỉnh tộp” là một đặc sản nổi tiếng của người Thái Nghĩa Lộ. Đồng bào Thái tự hào với nguồn gốc lịch sử dân tộc, với truyền thống đấu tranh anh dũng và tự hào là cư dân nông nghiệp có nền văn minh lúa nước lâu đời. Đồng bào đoàn kết với các dân tộc anh em vươn lên xóa đói, giảm nghèo góp phần đưa tỉnh Yên Bái trở thành tỉnh giàu mạnh. (Tài liệu được tham khảo từ cuốn “Một số đặc trưng các đồng bào dân tộc tỉnh Yên Bái", do Ban Dân vận Tỉnh ủy xuất bản)

Dân tộc Cờ Lao là một trong những dân tộc có dân số ít ở Việt Nam. Người Cờ Lao ở Việt Nam vốn từ Trung Quốc di cư sang. Trải qua các thời kỳ lịch sử, các nhóm Cờ Lao đã di cư dần xuống phía Nam rồi vào Việt Nam. Những người Cờ Lao đầu tiên tới Việt Nam sớm nhất là cách đây khoảng từ 150 đến 200 năm. Những đợt di cư cuối cùng của họ đã chấm dứt cách đây khoảng 60 - 80 năm.

Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, dân số dân tộc Cờ Lao là 4.003 người, trong đó nam là 2.005 người, nữ là 1.998 người.

Dân tộc Cờ Lao chỉ cư trú ở tỉnh Hà Giang, gồm vùng cao núi đá, núi đất (các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Hoàng Su Phì), vùng giữa (huyện Yên Minh) và vùng thấp (hai huyện Vị Xuyên, Bắc Quang).

Người Cờ Lao vẫn giữ được những nếp nhà truyền thống. (Ảnh: TTXVN)

Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Ðai, cùng nhóm với tiếng La Ha, La Chí, Pu Péo (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Trước đây, các nhóm địa phương có phương ngữ khác nhau nhưng hiện nay đa số người Cờ Lao đỏ, Cờ Lao xanh không còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Tuỳ theo quá trình tiếp xúc, cộng cư họ quen sử dụng tiếng Quan hoả, tiếng Nùng hay tiếng Pu Péo, Hmông.

Giáo dục: Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông chiếm 58,2%, tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp tiểu học chiếm 103,4%. Tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp trung học cơ sở là 83,1%, tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp trung học phổ thông là 37,4%, tỷ lệ trẻ em ngoài trường là 17,6%.

Thiết chế xã hội: Dưới thời Pháp thuộc, các chủ đất - những người có công khai phá lập làng, trưởng dòng họ được chính quyền bổ nhiệm giữ chức mã phải cai quản 1 - 2 làng hoặc mù lao cai quản vài gia đình. Ngày nay, hệ thống quản lý hành chính cơ sở đã được thực hiện ở tất cả các cấp, trong đó làng của người Cờ Lao là cấp cơ sở của tổ chức hành chính cấp xã.

Tôn giáo, tín ngưỡng: Có thể nói, so với các yếu tố văn hóa vật chất, tôn giáo, tín ngưỡng của người Cờ Lao rất ít thay đổi. Đồng bào vẫn giữ quan niệm về ba bộ phận cấu thành nên thế giới (trời, đất và nước), tín ngưỡng đa thần, vạn vật hữu linh.

Nhà ở: Đồng bào Cờ Lao ở nhà đất, phổ biến là ba gian, hai chái. Phần lớn nhà ở của người Cờ Lao là nhà trình tường, lợp ngói máng.

Trang phục: Bộ y phục của nam giới gồm có mũ, áo và quần. Quần màu chàm hoặc màu đen, ống rộng, dài đến mắt cá chân, không có túi. Áo màu chàm hay màu đen dạng cổ đứng, xẻ ngực, có khuy bằng vải. Áo xẻ tà, thường có bốn túi không nắp.

Trang phục nữ, chủ yếu sử dụng quần, khăn, áo, dây lưng, xà cạp và ở một số địa phương đồng bào còn sử dụng tạp dề như người H’Mông.

Ẩm thực: Về ăn, thức ăn của người Cờ Lao chủ yếu được chế biến từ các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi. Thức ăn được chế biến từ các sản phẩm chăn nuôi gồm gà, lợn và dê.

Nghệ thuật: Người Cờ Lao vẫn truyền lại cho con cháu những câu chuyện kể về lịch sử di cư, sự tích chiếc váy cổ truyền, việc cưới xin trước đây, chuyện bị đánh rụng răng.

Ruộng nước và nương núi đất, trồng lúa là hoạt động sản xuất chính của người Cờ Lao (Ảnh: THÀNH ĐẠT)

Nhóm Cờ Lao xanh và Cờ Lao trắng phân bố ở hai huyện Đồng Văn, Mèo Vạc sống dựa chủ yếu vào nương định canh, gieo trồng ngô ở hốc núi đá. Nhóm Cờ Lao đỏ phân bố ở hai huyện Hoàng Su Phì và Yên Minh, nơi có nhiều núi đất và thung lũng, làm ruộng nước và nương núi đất, trồng lúa là chính. Ngoài cây lương thực chính, người Cờ Lao còn trồng nhiều loại đậu, rau xanh và các loại cây trồng khác. Đối với mọi gia đình Cờ Lao, đây là hoạt động kinh tế không thể thiếu. Chăn nuôi không chỉ chủ yếu cung cấp sức kéo và phân bón cho sản xuất, thực phẩm cho các hoạt động liên quan đến ma chay, cưới xin, lễ tết.

Cũng như chăn nuôi, thủ công gia đình chỉ là nghề phụ. Nghề mộc là hoạt động thủ công gia đình đã có từ lâu đời và khá phát triển trong các gia đình Cờ Lao. Nghề nấu rượu ngô không phải là nghề truyền thống nổi trội trong cộng đồng người Cờ Lao, rượu ngô của đồng bào đã trở thành một mặt hàng được nhiều người biết đến.

Hái lượm, cũng như săn bắn và đánh bắt thủy sản, thay vì đóng vai trò là một trong các hoạt động sinh kế chủ yếu như trước đây, hái lượm cũng chỉ là một hoạt động bổ trợ cho hoạt động nông nghiệp của đồng bào Cờ Lao.

(VOV5) -Trong đời sống tâm linh người Cờ Lao có nhiều nghi lễ như: lễ đặt tên, lễ trưởng thành, lễ cưới, lễ tang.

Cờ Lao là một trong số dân tộc ít người ở Việt Nam. Người Cờ Lao còn có các tên gọi khác như: Tứ Ðư, Ho Ki, Voa Ðề. Người Cờ Lao chuyển cư tới Việt Nam cách đây khoảng 150 - 200 năm. Người Cờ Lao chia thành các nhóm địa phương gồm Cờ Lao Xanh, Cờ Lao Trắng, Cờ Lao Ðỏ với tổng dân số chưa đến 3.000 người, cư trú chủ yếu ở tỉnh Hà Giang. Người Cờ Lao trước đây có ngôn ngữ riêng, nhưng hiện nay đa số người Cờ Lao trẻ không còn nói được tiếng mẹ đẻ nữa. Trong quá trình tiếp xúc giao thoa văn hóa với nhiều dân tộc khác, họ có thể sử dụng tiếng Quan hoả, tiếng Nùng hay tiếng Pu Péo, Hmông.

Nghe âm thanh bài viết tại đây:

Người Cờ Lao đến cư trú chủ yếu tại vùng núi phía Bắc Việt Nam ở vùng cao núi đá tai mèo. Người Cờ Lao thường sống thành từng làng khoảng 15 - 20 nóc nhà ở vùng núi đất huyện Hoàng Su Phì, hoặc núi đá tai mèo ở huyện Ðồng Văn (Hà Giang). Người Cờ Lao  chủ yếu làm nương cày, thổ canh hốc đá. Ngô là cây lương thực chính. Trên nương họ còn trồng đậu răng ngựa, lúa mạch, đậu Hà lan, su hào...Bộ phận người Cờ Lao ở vùng núi đất chuyên sống bằng nghề làm ruộng bậc thang, lúa là cây lương thực chính. Nghề thủ công truyền thống là đan lát và làm đồ gỗ. Nhiều làng có thợ rèn sửa chữa nông cụ. Điểm dễ nhận biết về dân tộc Cờ lao, đó là trang phục của phụ nữ. Phụ nữ Cờ Lao mặc áo dài đến gối. Trên ngực và tay áo đắp thêm vải màu. Hiện nay chiếc áo trong với ống tay dài vẫn còn được sử dụng, còn chiếc áo ngoài với ống tay ngắn.

Ông Nguyễn Hữu Sơn, Phó chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, cho biết: "Đời sống của người Cờ Lao những năm gần đây đã thay đổi rất nhiều, nhất là khi mở cửa biên giới, thì ngôn ngữ truyền thống, ngôn ngữ quan hỏa được sử dụng đan xen. Trang phục của người Cờ Lao cũng biến đổi nhiều, trước đây người Cờ Lao tự làm vải thủ công, thì nay họ mua vải công nghiệp để may trang phục. Đặc biệt nhuộm vải trước đây nhuôm bằng mầu thực vật thì nay dùng vải nhuôm công nghiệp. Tuy nhiên  các bộ trang phục vẫn mang sắc thái riêng, đặc biệt là các hoạt tiết hoa văn và kiểu cắt may vẫn giữ được nét truyền thống."

Mỗi làng của người Cờ Lao có khoảng 15-20 nóc nhà, thường là các gia đình cùng dòng họ sống gần nhau. Nhà của người Cờ Lao thường là nhà ba gian hai trái, mái lợp cỏ gianh hoặc các ống vầu, nứa bổ đôi đập tạo thành mặt phẳng. Người Cờ Lao Ðỏ làm nhà trình tường như kiểu nhà của người Pu Péo, có tường nhà bằng đất sét đập mịn. Hàng ngày người Cờ Lao phải địu nước về nhà; ở vùng núi đất, họ dùng máng đưa nước về đến tận nhà. Người Cờ Lao thờ Tổ tiên 3-4 đời, riêng người Cờ Lao trăng trên bàn thờ thường có xương hàm lợn với ý nghĩa năm nào cũng có lợn thờ cúng để Tổ tiên phù hộ năm sau chăn nuôi tốt, gia đình gặp mọi điều tốt lành.

Trong đời sống tâm linh người Cờ Lao có nhiều nghi lễ như: lễ đặt tên, lễ trưởng thành, lễ cưới, lễ tang. Trong đó lễ trưởng thành cho thanh niên dân tộc Cờ Lao rất có ý nghĩa. Dân tộc Cờ Lao quan niệm lễ đặt tên cho người trưởng thành là dấu mốc quan trọng. Trong ngày này gia đình, họ hàng, bà con làng xóm  cùng đến chung vui. Bên cạnh các nghi lẽ truyền thống, những người được mời tham dự còn hát dân ca thể hiện sự vui mừng.

Trong cuộc sống, người Cờ Lao chủ yếu làm nông nghiệp. Công việc của nhà nông trên những núi cao, làm ruộng trên đất dốc, nên công việc nhà nông hết sức vất vả, khó khăn, Bởi vậy việc người con trai trong gia đình được công nhân đã đến tuổi trưởng thành là niềm tự hào của gia đình và cả dòng tộc. Ông Lưu Sẩm Vạn, nhà nghiên cứu dân tộc của tỉnh Hà Giang, cho biết: "Đối với lễ trưởng thành của dân tộc Cờ Lao, dành cho các gia đình có con trưởng thành, thể hiện người đó lã lớn khôn trưởng thành, được cộng đồng công nhận,từ đó, người đó có thể tham gia các hoạt động của cộng đồng dân cư."

Sau nghi lễ trưởng thành, người con trai Cờ Lao được cả cộng đồng công nhận đã có đầy đủ sức vóc để làm chủ gia đình, là lao động chủ lực để nuôi sống gia đình. Đã nhiều thế kỷ trôi qua, cuộc sống đã nhiều đổi thay, ngày càng hiện đại nhưng người Cờ Lao vẫn giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống, kiến trúc nhà ở đặc trưng. Bên cạnh đó, mặc dù trang phục đã ít nhiều mai một, nhưng phụ nữ Cờ Lao vẫn coi trọng trang phục dân tộc mình. Đặc biệt đồng bào Cờ Lao vẫn giữ được phong tục tập quán văn hóa tốt đẹp của dân tộc mình.

%PDF-1.4 %âãÏÓ 4 0 obj <> stream ÿØÿà JFIF �� ÿÛ C 2!=,.$2I@LKG@FEPZsbPUmVEFdˆemw{�‚�N`�—Œ}–s~�|ÿÛ C;!!;|SFS||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||ÿÀ ëH" ÿÄ ÿÄ µ } !1AQa"q2�‘¡#B±ÁRÑð$3br‚ %&'()*456789:CDEFGHIJSTUVWXYZcdefghijstuvwxyzƒ„…†‡ˆ‰Š’“”•–—˜™š¢£¤¥¦§¨©ª²³´µ¶·¸¹ºÂÃÄÅÆÇÈÉÊÒÓÔÕÖ×ØÙÚáâãäåæçèéêñòóôõö÷øùúÿÄ ÿÄ µ w !1AQaq"2�B‘¡±Á #3RðbrÑ $4á%ñ&'()*56789:CDEFGHIJSTUVWXYZcdefghijstuvwxyz‚ƒ„…†‡ˆ‰Š’“”•–—˜™š¢£¤¥¦§¨©ª²³´µ¶·¸¹ºÂÃÄÅÆÇÈÉÊÒÓÔÕÖ×ØÙÚâãäåæçèéêòóôõö÷øùúÿÚ ? ëÚ-ÁwrWÖ‘÷ì ¤+Ú�!m¸B4¡~é<‘Þ•†'–7îïŒQÕÏ< S’ê;u4¸äŸZ,!çÎi�FíJ9cíÀ¥ ,*„\Òš±‚˜=O$Ó—‘ŸZáN; ,0vŽ‡ƒFÅÀÈt§`ŽÔ‡œzE€GPÅAéÖ�Š8éN4˜Ë}Xí #1# R…E~ iÔ‹Õ�½‰ðvŒ‚iB ãÒŸ»æÇ4ˆÑž½è°î1"P@¥* à.G´ârÇj À' ,mU�ùR2ïÛ•àv§uíÞ— ¢Â@ÂçéL’0ĶÐxâŸÉ Ðç ~”Xb��ŠM£Ò�E݃ÐR|¹§ÑE€g–¾‚�‹è)ôQ`¸Ï-})<¥Ç T”QaÜ�Ê\t—(©(¢Ár?)}åA…}IIE‚äf%ô•%ÏN”óíKô8¢Áq¢5…1�yÄã�¼TÕ¿îŸçE‚⃩ Ï©¥Ø0 œt§9Ú¤Ž´`ƒÎ � °\€vô¡×”A�

Trong suốt chiều dài hơn 4 nghìn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã bao lần phải vùng lên đánh đuổi giặc ngoại bang xâm lược. Vì thế, nỗi ước mong, khát vọng hòa bình, độc lập luôn dồn nén, cháy bỏng trong mỗi người dân nước Việt. Đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, khát vọng ấy đã được thổi bùng lên, biến thành sức mạnh dời non lấp biển. Ngày 2/9/1945, ước mong cháy bỏng của dân tộc đã thành hiện thực.

Từ một nước Việt Nam thuộc địa, không có tên trên bản đồ thế giới, dân tộc Việt Nam đã có thể ngẩng cao đầu, đã hiên ngang khẳng định vị thế là một quốc gia độc lập, tự chủ. Sau ngày lập nước, lớp cha trước, lớp con sau lại nối tiếp nhau chiến đấu, hi sinh để bảo vệ và giữ vững nền độc lập.

Trong không khí tự hào của ngày Tết độc lập, chúng ta cùng nhìn lại một chặng đường đầy gian nan, thử thách nhưng cũng vô cùng vinh quang và tự hào của dân tộc Việt Nam qua trao đổi giữa phóng viên VOV với Tiến sĩ Nguyễn Thị Liên, Giảng viên chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.